Bàn về cách tiếp cận quản lý điểm đến nhằm tăng sức hấp dẫn cho môi trường du lịch Việt Nam
23/07/2019
Tóm tắt:
Vấn đề quản lý điểm đến du lịch đã được nghiên cứu trong suốt hai thập kỷ qua thu hút được sự quan tâm đặc biệt của các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước; tuy nhiên về quan điểm và ý kiến cũng khác nhau. Bài viết này mong muốn trình bày trên quan điểm tích hợp để có cách tiếp cận thống nhất về điểm đến và quản lý điểm đến; mở rộng cách tiếp cận phù hợp với bối cảnh yêu cầu giữa tăng trưởng và phát triển, giữa cạnh tranh và phát triển bền vững của điểm đến. Thông qua phân tích những nét cơ bản về quản lý điểm đến của du lịch Việt Nam, bài viết tập trung chỉ ra những kết quả và tồn tại trong hoạt động quản lý điểm đến. Trên cơ sở đó, bài viết đề xuất một số giải pháp cơ bản để tăng tính hấp dẫn cho môi trường du lịch Việt Nam, thích ứng với yêu cầu về phát triển điểm du lịch ngày càng coi trọng, được xem là chủ đề chính của phân tích và hành động quản lý trong lĩnh vực du lịch.
Từ khóa: quản lý điểm đến du lịch, phát triển bền vững, môi trường du lịch, cạnh tranh trong du lịch, du lịch bền vững
Thống nhất về khái niệm điểm đến và quản lý điểm đến du lịch
Theo Luật Du lịch của Việt Nam (2017), điểm đến du lịch luôn gắn với địa điểm cụ thể có lợi thế về tài nguyên du lịch được quy hoạch đầu tư, khai thác nhằm đáp ứng nhu cầu đa dạng của khách du lịch. Qui mô của điểm đến du lịch hết sức đa dạng, có thể là các điểm tham quan, khu du lịch, trung tâm du lịch, đô thị du lịch, vùng du lịch, thậm chí điểm đến là một quốc gia hay cả một khu vực. Về cơ bản, cách tiếp cận này, coi điểm đến du lịch liên quan đến một địa điểm cụ thể có ranh giới xác định. Buhalis & Amaranggama (2013) cho rằng điểm du lịch là nơi mà khách du lịch đến và trải nghiệm sản phẩm dịch vụ tại các điểm tham quan.
Bên cạnh đó, một số nhà nghiên cứu còn có quan điểm khác về điểm đến du lịch, thông qua nhấn mạnh sự kết hợp của các sản phẩm du lịch đến từ cung trong du lịch, gắn liền việc huy động các nguồn lực, các bên tham gia liên quan trong phạm vi với lãnh thổ nhất định. Cụ thể như Buhalis (2000) cho rằng điểm đến du lịch là sự kết hợp của nhiều sản phẩm du lịch mang đến các trải nghiệm tích hợp cho khách du lịch. Hay như Hu và Ritchie (1993) nhìn nhận điểm đến là gói dịch vụ và tiện nghi trong du lịch bao gồm tập hợp của sự đa dạng các thành tố tạo nên từ điểm du lịch. Theo nghiên cứu của Buhalis (2000) chỉ ra, mỗi điểm đến được chủ yếu cầu thành từ 6 thành tố chính sau (viết tắt là 6As): điểm tham quan (Attractions), khả năng tiếp cận (Accessibility), Tiện nghi (Amenities), gói dịch vụ có sẵn (Available packages), hoạt động và dịch vụ bổ trợ (Activities and ancillary services). Các điểm tham quan được nói đến chính là nơi đáp ứng nhu cầu tham quan của khách du lịch, có liên quan đến tài nguyên thiên nhiên, tài nguyên nhân tạo hoặc văn hóa tại điểm đến. Khả năng tiếp cận đề cập đến sự thuận lợi đi lại của du khách thông qua hệ thống, tuyến giao thông trong điểm đến. Tiện nghi đề cập đến lưu trú, hoạt động giải trí và các dịch vụ khác tạo điều kiện cho một kỳ nghỉ thoải mái. Các gói dịch vụ có sẵn là sự sẵn sàng phục vụ từ các dịch vụ phản ảnh sự độc đáo, khác biệt của điểm đến, những đặc trưng của các điểm tham quan, thúc đẩy khách du lịch đến điểm đến đó. Dịch vụ bổ trợ là các loại dịch vụ khác được khách du lịch sử dụng khi du lịch tại điểm đến như dịch vụ ngân hàng, bảo hiểm y tế, an ninh, an toàn,….. 6As này được coi là những nhân tố cơ bản của điểm du lịch để qua đó quản lý phát triển điểm đến du lịch và tăng giá trị cho trải nghiệm du lịch tại điểm đến.
Chính vì quan điểm khác nhau về điểm đến du lịch gắn với ranh giới địa lý hay điểm đến gắn với sản phẩm dịch vụ du lịch của địa phương dẫn đến sự phức tạp của việc quản lý điểm đến. Do chưa thống nhất về cách tiếp cận mà vấn đề quản lý điểm đến đôi khi khó phân định với hoạt động liên quan khác như hoạt động tiếp thị điểm đến, phân định vai trò các bên liên quan của quản lý điểm đến, năng lực khả năng cạnh tranh điểm đến. Dù cho có sự khác biệt trong nhận thức quản lý điểm qua lăng kính từ khách du lịch hay từ nhà cung cấp sản phẩm dich vụ du lịch nhưng vẫn luôn cần thiết phải có sự nhận thức đầy đủ về quản lý điểm đến (Pearce, 2015). Do vậy, yêu cầu đặt ra cách tiếp cận phải tích hợp quan điểm cả từ cung và cầu du lịch để trong nhận thức quản lý của điểm đến. Khi đó, quan điểm tích hợp nhìn nhận điểm đến du lịch không còn chỉ còn tập trung vào cung sản phẩm, dịch vụ có đặc tính phân tán mà hướng tới việc cung cấp hoàn chỉnh sản phẩm dịch vụ du lịch thông qua cách tiếp cận phối hợp trong việc quản lý điểm đến để tối đa hóa lợi ích cho các bên tham gia. Do đó, quản lý điểm đến là phối hợp, quản lý tất cả các yếu tố tạo nên một điểm đến (hấp dẫn, tiện nghi, tiếp cận, tiếp thị và giá cả) và thúc đẩy chiến lược liên kết các tác nhân liên quan nhằm cải thiện hoạt động quản lý điểm đến. Quản lý điểm đến trở thành một quyết định có tính chiến lược của tổ chức quản lý điểm đến (DMO) từ thiết lập, nghiên cứu, quảng bá đến thương mại hóa sản phẩm du lịch tại địa phương. Theo đó, điểm đến du lịch được nhìn từ góc độ của tổ chức quản lý điểm đến, hỗ trợ cho quản lý các bên liên quan giúp cho khách có trải nghiệm sản phẩm trong phạm vi địa lý điểm đến du lịch. Các quyết định này hỗ trợ kiểm soát các luồng khách du lịch và duy trì thế cân bằng, bền vững phù hợp với năng lực hoạt động của các bên liên quan điểm đến. Trong khi chưa có định nghĩa chung về quản lý điểm đến, rất cần quan điểm mở rộng về quản lý điểm đến, giúp phân biệt với quản trị marketing điểm đến và làm nổi bật nhiều chức năng khác của quản lý điểm đến du lịch cần phải triển khai.
Về triển khai chức năng quản lý điếm đến, Tổ chức Du lịch Thế giới (2004) chỉ ra các cơ quan quản lý điểm đến (DMO) với tư cách là tổ chức chịu trách nhiệm chính về quản lý và/hoặc marketing điểm đến, và phân loại chúng theo 3 cấp độ:
Cơ quan hay Tổ chức Du lịch Quốc gia (NDMO), chịu trách nhiệm quản lý và tiếp thị du lịch ở cấp quốc gia.
Các DMO khu vực chịu trách nhiệm quản lý và marketing du lịch trong một khu vực địa lý thiết lập mục tiêu quản lý, đôi khi hoạt động như chính quyền địa phương ở tỉnh, thành phố.
Các DMO địa phương, chịu trách nhiệm quản lý và / hoặc marketing du lịch dựa trên một khu vực địa lý nhỏ hơn.
Phân biệt giữa các cấp độ quản lý, có thể thấy cấp quốc gia thường giữ vai trò chiến lược định hướng và quản lý tổng thể hơn, trong khi DMO khu vực kiểm soát chiến lược quốc gia ở cấp địa phương, còn DMO tại địa phương vai trò điều phối trong hoạt động du lịch ở cấp địa phương. Như vậy, DMO địa phương sẽ có nhiều trách nhiệm hơn đối với triển khai hoạt động và lắng nghe các bên liên quan tại địa phương và hỗ trợ trong quá trình lập kế hoạch và thực hiện. Cấp DMO địa phương là cấp độ hành động quản lý điểm đến. Ưu điểm của DMO địa phương là sát với thực tiễn và tác động trực tiếp đến bối cảnh cụ thể của điểm đến. Liên quan đến vấn đề này, cách tiếp cận chiến lược từ trên xuống phải được kết hợp lý tưởng với chiến lược từ dưới lên cho phép DMO địa phương đạt được vai trò chỉ đạo và tiếp nhận phản hồi để đưa ra quyết định phù hợp cho điểm đến.
Theo cách tiếp cận nghiên cứu về quản lý điểm đến, DMO thường được xem là cơ quan làm marketing điểm đến. Song những năm gần đây đã có xu hướng chuyển đổi cách tiếp cận về tổ chức quản lý điểm trước thách thức về vai trò của marketing điểm đến, cạnh tranh và tính bền vững của điểm đến. Do đó, các tổ chức quản lý điểm đến hướng sang hình thức hoạt động của các nhà kiến tạo điểm đến du lịch, xúc tiến hỗ trợ cho việc thực hiện phát triển du lịch. Tóm lại, xem xét trên quan điểm toàn diện đã đề cập ở trên, yêu cầu đặt ra khi quản lý điểm đến đòi hỏi một cách tiếp cận tích hợp của các bên liên quan khác nhau là hết sức quan trọng.
Quản lý điểm đến ở Việt Nam trong bối cảnh bùng nổ phát triển du lịch
Sự tăng trưởng nhanh chóng của du lịch Việt Nam trong thời gian gần đây phản ánh sự nổi bật của ngành du lịch về động lực kinh tế, thúc đẩy tự do thương mại, áp dụng những tiến bộ công nghệ. Năm 2018, du lịch Việt Nam đã ước đón 15,6 triệu lượt khách quốc tế, phục vụ trên 80 triệu lượt khách nội địa, tổng thu từ khách du lịch đạt hơn 620.000 tỷ đồng. Về hệ thống doanh nghiệp lữ hành và hướng dẫn viên, trong năm 2018 có 380 doanh nghiệp được cấp giấy phép kinh doanh quốc tế mới; cấp mới 4.678 thẻ hướng dẫn viên. Về cơ sở lưu trú du lịch trong năm 2018 có 113 cơ sở lưu trú phân khúc từ 3-5 sao được công nhận. Có thể nói, sự phát triển này là khẳng định chủ trương và đường lối đúng đắn của Đảng và Nhà nước đặc biệt thúc đẩy ngành du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn để du lịch đã trở thành một đặc trưng của xã hội hiện đại với sự kết nối với xu thế của thị trường du lịch toàn cầu.
Phát triển du lịch và ý nghĩa kinh tế của du lịch qua đó, kéo theo hình thành nhiều điểm đến mới. Hiện nay ở Việt Nam, sự phát triển các điểm đến du lịch diễn ra nhanh và đa dạng sức hấp dẫn không chỉ khách du lịch nội địa mà còn có sức hấp dẫn với cả khách du lịch quốc tế. Tính đến năm 2018, có tới 8 di sản thế giới, 45 khu du lịch quốc gia, 40 điểm du lịch quốc gia, 24 trung tâm du lịch và 12 đô thị du lịch…Đây chính là tạo ra sự đa dạng các chương trình du lịch, tuyến điểm du lịch phục vụ đa dạng nhu cầu của khách du lịch nội địa và quốc tế lựa chọn khi đi du lịch Việt Nam.
Một số điểm đến du lịch nổi tiếng của Việt Nam
Nhu cầu du lịch ngày càng tăng và với tốc độ tăng trưởng khách nội địa và quốc tế như hiện nay thì việc quản lý điểm đến có vai trò hết sức quan trọng đối với hoạt động du lịch của Việt Nam thể hiện những điểm sau:
Một là, quản lý điểm đến luôn nhấn mạnh về tầm quan trọng đảm bảo an toàn, an ninh cho khách du lịch. Đặc biệt có các biện pháp an toàn đối với các dịch vụ để đảm bảo sức khỏe của khách du lịch như: Bay dù lượn, đi xe đạp, mô tô, ô tô địa hình trên núi, lặn dưới nước, chèo thuyền vượt ghềnh thác, ca nô kéo dù bay ….Điều này được quy định chi tiết trong Luật du lịch 2017, Nghị định 168/2017/NĐ-CP ngày 31 tháng 12 năm 2017 quy định chi tiết một số điều của Luật du lịch.
Hai là, quản lý tốt điểm đến hướng đến kéo dài thời gian lưu trú, tăng chi tiêu của khách du lịch đồng thời góp phần hạn chế bớt những tác động bất lợi do tính thời vụ trong hoạt động kinh doanh du lịch.
Ba là, điểm đến Việt Nam ngày càng có sức hấp dẫn lớn, trở thành thương hiệu nó sẽ làm cho các lĩnh vực khác trong vùng cùng phát triển theo như giao thông vận tải, nông nghiệp, công nghiệp chế biến, thủ công mỹ nghệ …Hiệu quả kinh tế sẽ được lan tỏa đến cả người dân và cả khu vực.
Bốn là, khi điểm đến được quản lý chu đáo, khách du lịch sẽ yên tâm và hài lòng hơn. Điều này sẽ làm tăng số lượng khách quay trở lại và giới thiệu cho bạn bè người thân. Và như vậy đây cũng chính là phương tiện quảng cáo cho điểm đến rẻ nhất, hiệu quả nhất.
Những tồn tại trong quản lý điểm đến ở Việt Nam
Mặc dù đạt nhiều thành tựu và kết quả đáng kể như trên, song quản lý điểm đến ở nhiều điểm du lịch ở Việt Nam hiện nay còn chưa được quan tâm đúng mức, dẫn đến còn nhiều vấn đề tồn tại ở các điểm du lịch. Cụ thể là:
Thứ nhất là, vẫn còn một số điểm du lịch quản lý chưa chặt chẽ, bãi tắm còn nhiều rác, thiếu vệ sinh, hiện tượng ăn xin, ăn cắp, đeo bám khách du lịch, nâng giá vô tội vạ đối với đồ ăn thức uống…nhất là vào thời kỳ cao điểm. Tại Hà Nội- Trung tâm du lịch lớn của vùng đồng bằng sông Hồng và duyên hải Đông Bắc cũng xảy ra các sự vụ làm ảnh hưởng đến hình ảnh trong mắt khách du lịch nước ngoài. Ví dụ với một chuyến taxi đi từ Hàng Quạt đến bảo tàng Dân tộc học đôi vợ chồng khách du lịch người Hà Lan đã phải trả đến 870.000đ; hay gần đây là chuyến du lịch “kinh dị” đến Vịnh Hạ Long của nhóm du khách người Úc …còn nhiều các sự vụ việc khác tại các điểm du lịch khác đã làm ảnh hưởng đến sự hấp dẫn của điểm đến du lịch.
Thứ hai là, nguồn tài nguyên du lịch chưa được thống kê, đánh giá, phân loại và xếp hạng để quản lý khai thác một cách bền vững, hiệu quả. Dẫn tới tài nguyên du lịch thì nhiều, nhưng khai thác, gìn giữ chưa hiệu quả. Một số tài nguyên du lịch bị tàn phá, sử dụng sai mục đích...
Thứ ba là, sản phẩm du lịch còn nghèo nàn, ít đặc sắc, trùng lặp tại các điểm du lịch do vậy chưa hình thành được những điểm đến với thương hiệu nổi bật. Để cho ra đời những sản phẩm du lịch vào khung giờ khuya (từ 18h đến 2h) nhằm đáp ứng nhu cầu của du khách đồng thời gia tăng khả năng chi tiêu của khách vẫn là một bài toán khó đối với ngành du lịch nước ta.
Thứ tư là, hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật, cơ sở lưu trú du lịch phát triển nhanh nhưng vận hành còn chưa chuyên nghiệp.
Thứ năm là, trình độ nhân lực tại điểm đến đặc biệt là trình độ chuyên môn, kỹ năng nghề còn thiếu và yếu, chưa đáp ứng kịp thời các yêu cầu của khách du lịch đặc biệt là khách du lịch quốc tế.
Giải pháp gia tăng sức thu hút của điểm đến
Sức sống của ngành du lịch Việt Nam cần được tạo nên từ sự hấp dẫn của những điểm đến du lịch. Hoạt động quản lý điểm đến cần tập trung phối hợp tất cả các yếu tố tạo nên một điểm đến (tiện nghi, tiếp cận, tiếp thị và giá cả…) và tiếp tục khẳng định rằng cần phải có một cách tiếp cận chiến lược để liên kết các tác nhân liên quan nhằm cải thiện quản lý điểm đến. Các điểm đến du lịch sẽ thúc đẩy phát triển kinh tế, yêu cầu cần thiết đặt ra tìm kiếm chiến lược tốt nhất để đối phó với cạnh tranh ngày càng tăng và thay đổi thị trường và duy trì lợi thế cạnh tranh của mỗi nền kinh tế. Các điểm đến có thể đối mặt với những thách thức: thích ứng với những thay đổi công nghệ nhanh chóng, đáp ứng kỳ vọng của khách du lịch đòi hỏi khắt khe hơn về giá cả và chất lượng, tìm kiếm những trải nghiệm đích thực, đặc biệt là đòi hỏi điểm đến không bị ô nhiễm và xanh sạch.
Để gia tăng sức hấp dẫn của mình các điểm đến du lịch cần chú trọng những vấn đề sau:
Thứ nhất: Duy trì điểm đến an toàn: Trật tự an ninh, an toàn tại điểm tham quan, an toàn tại cơ sở lưu trú, tại các nhà hàng. Đảm bảo an toàn cho du khách khi tham gia vào các trò chơi cảm giác mạnh, các trò chơi mạo hiểm.
Thứ hai: Tại điểm đến, cần nâng cao theo tiêu chuẩn về tiện nghi: Mức độ hấp dẫn, độc đáo của tài nguyên du lịch. Mức thẩm mỹ, tiện nghi của cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch. Mức độ độc đáo, hấp dẫn của sản phẩm du lịch. Sản phẩm du lịch cần được cải tiến để giữ chân du khách ở lại lâu hơn, chi tiêu nhiều hơn và mong muốn có ngày trở lại. Bảo đảm tính bền vững trong phát triển du lịch, gìn giữ tài nguyên du lịch, bảo vệ môi trường sinh thái. Gìn giữ tài nguyên có ý nghĩa sống còn với điểm du lịch và hoạt động du lịch. Nếu gìn giữ không tốt hoặc khai thác quá mức sẽ dẫn đến tài nguyên du lịch bị hủy hoại. Những điểm đến mà tài nguyên du lịch bị hủy hoại hay ô nhiễm môi trường thì chắc chắn sẽ không thể thu hút được khách du lịch.
Thứ ba: Điểm đến phải đón tiếp khách du lịch chu đáo: Mức độ nhiệt tình chu đáo, chuyên nghiệp trong đón tiếp, phục vụ khách du lịch. Chu đáo, nhiệt tình của đội ngũ nhân viên phục vụ. Kỹ năng giao tiếp, thuyết phục khách, trình độ ngoại ngữ, chuyên môn của nhân viên. Nhanh chóng, chính xác, tận tình khi xử lý các tình huống xảy ra đối với khách du lịch.
Thứ tư: Điểm đến đảm bảo vệ sinh. Mức độ sạch sẽ tại các điểm du lịch. Mức độ sạch sẽ ở khách sạn, nhà hàng, ở các cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch. Mức độ sạch sẽ của đội ngũ nhân viên. Đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm.
Thứ năm: Giá cả sản phẩm và dịch vụ hợp lý không để xảy ra tình trạng nâng giá vô tội vạ, chặt giá, chém giá. Giá cả cần phải tương xứng với chất lượng của các sản phẩm, dịch vụ mà điểm du lịch cung cấp cho du khách.
Thứ sáu: Điểm đến càng có khả năng đáp ứng tốt nhất nhu cầu của khách du lịch thì điểm đến đó càng có nhiều cơ hội để du khách chọn lựa. Do đó, để tăng khả năng thu hút và nâng cao năng lực cạnh tranh của điểm đến, việc hoạch định chiến lược phát triển, trên cơ sở xây dựng hình ảnh và thương hiệu của điểm cần được triển khai thực hiện.
Để có thể triển khai được 6 giải pháp trên, nhấn mạnh giải pháp thứ 7 là sự cần thiết tái cấu trúc về tổ chức quản lý của các điểm đến nhằm lan tỏa nhận thức tốt hơn về phát triển điểm đến du lịch. Trong khi khách du lịch nhận thức và tiêu dùng các sản phẩm tại điểm đến là một sản phẩm duy nhất của điểm đến và có tính tích hợp, nên các DMO phải thực hiện đồng bộ các nhiệm vụ tiếp thị, quảng cáo và bán hàng, đồng thời phối hợp lập kế hoạch và quản lý điểm đến dài hạn. Vai trò của DMO cần được phân định rõ giữa tiếp thị điểm đến ra bên ngoài và phát triển bên trong điểm đến. Các hoạt động bên ngoài bao gồm tiếp thị và quảng bá, cần có những chương trình hành động hỗ trợ các doanh nghiệp du lịch trong nước tăng khả năng cạnh tranh và định vị trong việc tạo ra lợi thế cạnh tranh đối với các điểm đến khác. Các hoạt động bên trong là sự phối hợp giữa các bên liên quan tăng cường huy động và triển khai các nguồn lực một cách hiệu quả, DMO là tổ chức đầu mối đảm bảo sử dụng hợp lý các yếu tố của điểm đến, trong dẫn dắt và phối hợp các nỗ lực của các bên liên quan khác nhau ở điểm đến, thúc đẩy hợp tác công-tư để đạt được các mục tiêu cụ thể. Với những kết quả đó, thúc đẩy tạo ra môi trường du lịch hấp dẫn, coi là nền tảng thành công hệ sinh thái điểm đến du lịch, cơ sở để phát triển các chính sách và chương trình phát triển điểm đến du lịch bền vững.
Kết luận
Tóm lại, với sự phát triển ngày càng mạnh mẽ của du lịch thì vai trò của quản lý điểm đến càng cần thiết. Nếu buông lỏng quản lý điểm đến sẽ dẫn đến sự phát triển du lịch không mong muốn, chất lượng sản phẩm du lịch không được kiểm soát, môi trường dễ bị ô nhiễm và tài nguyên du lịch cũng không được gìn giữ… Tất cả những điều đó đều làm ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển bền vững của du lịch của cả một quốc gia. Hiện nay, mặc dù còn nhiều tồn tại và hạn chế cần khắc phục, nhưng không thể phủ nhận về du lịch Việt Nam ngày càng phát triển đa dạng, có nhiều sản phẩm chất lượng cao, tạo cơ sở hình thành một số điểm đến hấp dẫn, các vùng động lực phát triển. Nhiều giá trị lịch sử, văn hóa, danh lam thắng cảnh, đặc biệt là các di sản được UNESCO công nhận đã được khai thác hiệu quả để hình thành các sản phẩm đặc trưng, thương hiệu của điểm đến giới thiệu với bạn bè quốc tế, góp phần tích cực trong việc quảng bá hình ảnh đất nước, đồng thời nâng cao giá trị sản phẩm và năng lực cạnh tranh của Ngành. Để tạo ra những sản phẩm du lịch hấp dẫn du khách trong và ngoài nước thì việc quản lý điểm đến ngày càng trở thành quan trọng và cấp thiết trong hoạt động du lịch hiện nay. Quản lý tốt điểm đến hướng tới việc hình thành thương hiệu của điểm đến sẽ là sự phát triển tất yếu của ngành du lịch Việt Nam trong tương lai.
Tài liệu tham khảo:
Tiếng Việt:
1. Luật du lịch 2017
2. Nghị định 168/2017/NĐ-CP ngày 31 tháng 12 năm 2017 quy định chi tiết một số điều của Luật du lịch
3. Thủ tướng Chính phủ (2013),“Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030”.
1. Buhalis, D. (2000). Marketing the competitive destination of the future. Tourism Management, 21(1), 97-116.
2. Buhalis, D., & Amaranggana, A. (2013). Smart tourism destinations. In Information and Communication Technologies in Tourism 2014 (pp. 553-564). Springer International Publishing.
3. Hu, Y., & Ritchie, J. B. (1993). Measuring destination attractiveness: A contextual approach. Journal of Travel Research, 32(2), 25-34.
4. Pearce, D. G. (2015). Destination management in New Zealand: Structures and functions. Journal of Destination Marketing & Management, 4(1), 1-12.