Phát triển môi trường văn hóa: thực trạng và giải pháp
20/03/2020
Từ khóa: phát triển môi trường văn hóa
I. Đặt vấn đề
Văn hóa trong nhà trường là tổng hòa toàn bộ sự phát triển của nhà trường từ hoạt động đào tạo, giáo dục, quản lý nhân lực, người học, cơ sở vật chất, giao tiếp và ứng xử trong nhà trường,... Xây dựng văn hóa của nhà trường là xây dựng hoạt động giảng dạy, giáo dục nhân cách người học phù hợp, hiệu quả; xây dựng cách thức ứng xử văn minh, lịch sự, thân thiện trong nhà trường, xây dựng cơ sở vật chất của nhà trường hiên đại, tiện dụng đảm bảo môi trường không bị ô nhiễm, không gian và cảnh quan sạch đẹp. Một nhà trường có môi trường văn hóa tốt là một nhà trường đào tạo có chất lượng cao, có sự phát triển bền vững, có uy tín trong cộng đồng và toàn xã hội.
Môi trường văn hoá ở trường Cao đẳng Du lịch Hà Nội đã và đang phát huy vai trò trong việc hình thành nhân cách của mỗi cá nhân trong thời kỳ đổi mới. Đồng thời, góp phần trực tiếp nâng cao chất lượng phục vụ cho hoạt động kinh doanh du lịch tại Việt Nam. Để đào tạo được một đội ngũ nhân viên phục vụ lành nghề, có tư chất, đạo đức nghề nghiệp trong hoạt động kinh doanh du lịch của Việt Nam, không chỉ nâng cao chất lượng đào tạo, hướng nghiệp dạy nghề mà còn phải quan tâm đến các hoạt động xây dựng môi trường văn hoá nhằm nâng cao đời sống tinh thần cho HSSV. Môi trường văn hóa lành mạnh sẽ giúp người học phát triển toàn diện cả về nhân cách và nghề nghiệp. Mỗi một sinh viên trưởng thành sẽ khẳng định vai trò của Nhà trường trong việc đào tạo nguồn nhân lực của ngành Du lịch và cho xã hội.
Là những cán bộ làm công tác giảng dạy của trường, chúng tôi nhận thấy môi trường văn hóa có vai trò quan trọng tác động đến đời sống tinh thần, đến quá trình học tập, nghiên cứu của HSSV. Chính vì vậy, nhóm nghiên cứu khoa học Khoa Kiến thưc cơ bản – Cơ sở ngành đã chọn đề tài “Phát triển môi trường văn hóa của trường Cao đẳng Du lịch Hà Nội trong giai đoạn hiện nay” làm đề tài nghiên cứu năm 2019. Đề tài đã thực hiện phân tích, lý giải làm sáng tỏ khái niệm văn hóa, môi trường văn hóa, các cấu trúc văn hóa và những đặc trưng văn hóa. Từ đó, tiếp cận để làm rõ nội dung và mục tiêu của chủ trương cuộc vận động xây dựng môi trường văn hóa trong nhà trường.
Văn hoá chính là toàn bộ các giá trị vật chất và các giá trị tinh thần đã được hệ thống hóa, tích lũy lại theo thời gian và có thể truyền lại cho thế hệ sau. Các hệ giá trị này do con người sáng tạo như hệ tư tưởng, sự hiểu biết, chuẩn mực, cách thức ứng xử, phong tục tập quán,... để từ đó hình thành nên các nền văn hoá và các môi trường văn hoá mang bản sắc khác nhau.
Văn hóa nhà trường là tổng hòa của nhiều thành tố hữu hình vô hình, nhưng chung quy lại các yếu tố này đều thuộc giá trị vật chất và giá trị tinh thần. Những giá trị này được các thế hệ thầy và trò của nhà trường xây dựng, tích lũy qua thời gian và được giáo dục cho các thế hệ sau.
Môi trường văn hóa bao gồm các giá trị vật chất và giá trị tinh thần của con người. Trong đó, con người là chủ thể sáng tạo, tái tạo, đánh giá, lưu giữ và hưởng thụ các sản phẩm vật chất và tinh thần của mình. Đồng thời, con người cũng là sản phẩm chủ yếu nhất của môi trường văn hóa. Sự tác động qua lại của các yếu tố văn hóa trong một không gian và thời gian xác định, nhằm giúp con người phát triển hài hòa và toàn diện.
Do sự đa nghĩa và trung tính của khái niệm môi trường văn hoá, nên khi xác định cấu trúc của nó phải đặt vào một không gian văn hoá xác định. Để nhìn nhận môi trường văn hoá một cách đúng đắn phải quan tâm đến đặc thù của đối tượng với những điều kiện khách quan và chủ quan của môi trường văn hoá. Bởi môi trường văn hoá chỉ là một yếu tố nằm trong hệ thống lớn hơn nó và bao gồm các yếu tố khác nữa. Vì vậy, khi nghiên cứu môi trường văn hoá, phải nghiên cứu mối tương tác giữa nó với những yếu tố khách quan bên ngoài và những yếu tố bên trong bản thân nó. Dựa trên những phân tích của nhóm tác giả cuốn “Quản lý hoạt động văn hoá” chúng tôi đi đến tìm hiểu những thành tố cơ bản tạo nên môi trường văn hóa trong nhà trường như sau:
- Cảnh quan văn hoá trong nhà trường: đây là yếu tố bề nổi phản ánh văn hóa của nhà trường, bao gồm không gian chung và không gian riêng. Yếu tố này có tác động nhiều đến chất lượng đào tạo của nhà trường.
- Hệ thống các thiết chế văn hoá: là yếu tố quan trọng của quá trình xây dựng và phát triển môi trường văn hóa. Hệ thống các thiết chế văn hóa hoàn chỉnh sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình “sản xuất”, “trao đổi”, “phân phối” văn hóa và còn có tác dụng duy trì, bảo tồn những giá trị văn hóa truyền thống.
- Hệ thống các hình thái hoạt động văn hoá: là một hình thức sinh hoạt tổng hợp trong đó bao gồm các hoạt động về phát triển văn hoá trong sinh viên, xây dựng các kế hoạch, triển khai các hoạt động và tổ chức thực hiện.
- Hệ thống những quan hệ ứng xử văn hoá: là hành vi ứng xử của thầy và trò, của đồng nghiệp, của lãnh đạo với CBGV - HSSV và ngược lại, của CBGV - HSSV với những người bên ngoài nhà trường.
Các thành tố trên có mối quan hệ chặt chẽ với nhau tạo thành một chỉnh thể thống nhất. Con người với những quan hệ ứng xử văn hóa của mình sẽ là yếu tố quyết định đến diện mạo của môi trường văn hóa. Đồng thời môi trường văn hóa cũng đóng một vai trò vô cùng quan trọng trong đời sống cộng đồng và trong quá trình xây dựng con người.
2. Thực trạng phát triển môi trường văn hóa của trường Cao đẳng du lịch Hà Nội
Đề tài tiến hành khảo sát trên khách thể nghiên cứu là sinh viên hệ cao đẳng chuyên ngành Quản trị Chế biến món ăn; Quản trị Lữ hành Hướng dẫn; Quản trị Khác sạn Nhà hàng; cán bộ, nhân viên, giáo viên của Nhà trường. Nhóm khảo sát phát ra 300 phiếu, thu về đủ 300 phiếu. Trong đó, chuyên ngành Quản trị Lữ hành Hướng dẫn: 60 phiếu, chiếm 30%; chuyên ngành Quản trị Khách sạn Nhà hàng 60 phiếu, chiếm 30 %, Chuyên ngành Quản trị chế biến món ăn 80 phiếu, chiếm 40%. Giáo viên 70 phiếu, chiếm 70%; cán bộ nhân viên Nhà trường 30 phiếu, chiếm 30%. Toàn bộ số liệu thu thập được qua điều tra được làm sạch và xử lý bằng chương trình SPSS trong môi trường Window, phiên bản 20.0. Đồng thời nhóm đề tài còn thực hiện phương pháp phỏng vấn sâu để bổ sung, làm rõ hơn những thông tin đã thu được từ khảo sát trên diện rộng về thực trạng phát triển môi trường văn hóa trường Cao đẳng Du lịch Hà Nội. Kết quả nhóm đề tài thu được như sau
Để tạo ra một môi trường làm việc và học tập tích cực với phương châm “Mỗi ngày đến trường là một ngày vui” trường Cao đẳng du lịch Hà Nội đã không ngừng đầu tư nhằm cải thiện hệ thống không gian cảnh quan chung của Nhà trường. Cũng trên tinh thần đó, nhóm nghiên cứu đề tài đã tiến hành lấy ý kiến đánh giá khách quan của CBCG và HSSV nhằm xác định chính xác mức độ hợp lý về cảnh quan chung của Nhà trường. Những đánh giá khách quan được thể hiện thông qua những kết quả khảo sát dưới đây:
Qua khảo sát cũng cho thấy, về cơ bản việc sắp xếp bố trí những khu vực chức năng hiện nay của trường Cao đẳng Du lịch Hà Nội là tương đối hợp lý với điều kiện không gian hiện có của Nhà trường. Tuy nhiên, khi xem xét chi tiết, cụ thể vào từng khu vực vẫn còn những tồn tại bất hợp lý cần phải được khắc phục trong thời gian tới để sinh viên có một không gian học tập, vui chơi và sinh hoạt văn hóa văn nghệ.
Không gian riêng
Với mục tiêu không ngừng nâng cao chất lượng đào tạo, trong những năm qua bằng nguồn tài chính chủ yếu từ ngân sách Nhà nước cấp và từ nguồn thu học phí, Nhà trường đã và đang dần từng bước xây dựng, nâng cấp cơ sở vật chất, đầu tư trang thiết bị hiện đại, tiên tiến; ưu tiên đầu tư cho khu vực giảng đường, phòng thực hành, thư viện đáp ứng yêu cầu đào tạo. Ngoài việc đầu tư cơ sở vật chất thì cách bố trí, sắp xếp các trang thiết bị khoa học, có tính thẩm mĩ cũng góp phần tạo nên một cảnh quan lớp học khang trang, sạch đẹp, tạo hứng khởi cho thầy và trò trong mỗi buổi học. Theo đánh giá của đa số HSSV, cách bài trí phòng học lý thuyết và thực hành là tương đối hợp lý. Tuy nhiên vẫn có tới 24% sinh viên được hỏi cho rằng không hợp lý đối với phòng lý thuyết và 14% đối với phòng học thực hành.
Vệ sinh môi trường trong Nhà trường
Nhóm nghiên cứu đã tiến hành lấy ý kiến đánh giá của CBGV và HSSV về công tác về sinh môi trường của Nhà trường, kết quả khảo sát được thể hiện ở Bảng số liệu dưới đây:
Từ những đánh giá tại bảng số liệu trên cho thấy hiện nay, vấn đề vệ sinh môi trường của Nhà trường được đánh giá ở mức bình thường. Theo ý kiến của một số cán bộ giáo viên thì các khu vực vệ sinh thuộc khu giảng đường dành cho giáo viên và HSSV được chưa được sạch sẽ. Một số khu vực, một số thời điểm còn xảy ra tình trạng ô nhiễm về mùi, bụi… không những ảnh hưởng đến mỹ quan thậm trí còn tác động tiêu cực đến cả thể chất của giáo viên và học sinh như: quạt trần, rèm cửa không được bảo dưỡng, làu chùi gây tình trạng bụi bẩn; nhà vệ sinh vẫn còn gây mùi khó chịu…
Hiện nay, trường Cao đẳng du lịch đã cung cấp một hệ thống các thiết chế văn hóa tương đối đầy đủ, hoàn chỉnh để kế thừa và phát huy thế mạnh là ngôi trường trọng yếu trong hệ thống đào tạo cung cấp nguồn lao động chất lượng cao của ngành Du lịch.
Trong hệ thống thiết chế văn hóa thì thư viện Nhà trường đóng vai trò rất quan trọng trong việc hỗ trợ công tác giảng dạy và học tập. Để phục vụ cho nhu cầu học tập và nghiên cứu khoa học, thư viện cung cấp gần 4000 đầu sách (11045 cuốn) bao gồm: sách Văn học - Nghệ thuật chiếm tỉ lệ 49,4%, sách Văn hóa du lịch chiếm 23,1%, sách kinh tế và các khoa học về kinh tế chiếm 21,2%, sách về các lĩnh vực khác chiếm 6,3%.[1] Bên cạnh sách, báo, tạp chí các tập bài giảng, giáo trình của tập thể giáo viên biên soạn cũng chiếm một số lượng đáng kể. Theo quan sát của nhóm nghiên cứu và kết hợp phỏng vấn cán bộ quản lý thư viện cho thấy, sinh viên đến phòng đọc chủ yếu là các em năm nhất (chiếm 80%), tập trung nhiều vào đầu năm học và số đầu sách sinh viên mượn thường là sách ngoại ngữ, văn hóa, sách kỹ năng (chiếm 40%). Trao đổi với cán bộ quản lý Thư viện, họ cho biết lâu nay đơn vị này không nhập các đầu sách về nấu ăn nữa, vì số lượng sinh viên đến mượn ngày càng ít. Các em dùng điện thoại vào trang Youtube tiện và nhanh hơn nhiều.
Bên cạnh Thư viện, phòng Truyền thống cũng nằm trong hệ thống thiết chế văn hóa của Nhà trường. Do diện tích nhỏ hẹp nên các hiện vật trong phòng Truyền thống còn sơ sài, đơn giản. Vì vậy, người xem chưa thấy hết được bề dày truyền thống dạy - học trong nhiều năm qua của Nhà trường.
Đối với CBGV: Công tác đào tạo bồi dưỡng cán bộ giáo viên luôn được Nhà trường quan tâm nhằm nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ và chuẩn hóa đội ngũ cán bộ. Hàng năm Nhà trường thường xuyên gửi cán bộ giáo viên tham gia các lớp bồi dưỡng lý luận chính trị, các đợt tập huấn lớp bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ (lớp chuyên viên, lớp bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm, bồi dưỡng ngôn ngữ, tin học...) , tổ chức học tập nghị quyết của Đảng, phát động các phong trào sống và làm việc theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh....
Đối với HSSV: Để xây dựng hình mẫu sinh viên trường Cao đẳng Du lịch Hà Nội “Tâm trong, trí sáng, hoài bão lớn”, Nhà trường thường tổ chức các hoạt động giáo dục về đạo đức, lối sống, nếp sống, ý thức chấp hành pháp luật, ý thức công dân cho HSSV. Công tác giáo dục được tiến hành thường xuyên, đặc biệt vào đợt sinh hoạt chính trị đầu khoá. Cùng với việc tổ chức đợt học tập chính trị đầu khoá học, Đoàn thanh niên triển khai và tổ chức thực hiện nhiều chương trình hành động. Công tác giáo dục truyền thống cũng được đẩy mạnh vào các sự kiện lớn của Nhà trường như: Chào mừng năm học mới, chào mừng Ngày Nhà giáo Việt Nam 20/11, ngày thành lập Đoàn TNCS Hồ Chí Minh 26/3, ngày sách Việt Nam 21/4, niệm thành lập trường...).
Hoạt động VHVN, TDTT của Trường thường do Đoàn thanh niên, phòng Công tác HSSV và các Khoa tổ chức cho HSSV vào những dịp kỷ niệm trong năm. Qua khảo sát cho thấy sinh viên ý thức được những tác động tích cực của hoạt động VHVN, TDTT trong Nhà trường. Tuy nhiên, số lượng các em tham gia cũng chưa cao (11,5% HSSV không bao giờ tham gia các hoạt động VHVN; 43,5% thỉnh thoảng tham gia; 28% tham gia tương đối thường xuyên; 12,5% thường xuyên tham gia và 4,5% tham gia rất thường xuyên )
Bên cạnh sinh hoạt văn hóa, thể dục thể thao cũng là hoạt động được sinh viên yêu thích. Tuy nhiên, do sân bãi của Nhà trường hạn chế nên chưa có không gian riêng cho hoạt động này. Lấy ý kiến đánh giá của CBGV và HSSV đa số cho rằng: Các hoạt động sinh hoạt văn hóa thể dục thể thao trong Nhà trường thường phải tận dụng không gian, không gian riêng chật chội không đủ điều kiện vật chất để đảm bảo cho các hoạt động này. Có thể thấy rõ hơn đánh giá trên qua quan sát biểu đồ sau:
Những năm trước đây, Trường cũng có các CLB trực thuộc khoa chuyên môn phát động và thành lập như: CLB bartender, CLB Nhà Lữ hành - Hướng dẫn giỏi, CLB Đầu bếp trẻ tương lai, CLB Tiếng Anh. Hiện nay, phần lớn các CLB thuộc Khoa không còn tồn tại. Nhà trường chỉ còn CLB Bartender thuộc khoa Quản trị Nhà hàng - Khách sạn đang hoạt động. Được biết CLB này duy trì hoạt động khá đều đặn từ năm 2014, với số lượng thành viên lên đến 50 sinh viên. Ngoài CLB Bartender, còn có CLB tình nguyện (do Đoàn Trường quản lý) và CLB guitar, CLB taekwondo, CLB khiêu vũ do HSSV tự thành lập. Các CLB này cũng tạo nên một môi trường vui chơi giải trí lành mạnh sau những giờ học tập căng thẳng. Tuy nhiên, các CLB do sinh viên thành lập mang tính tự phát, các hoạt động thiếu kế hoạch, không có mục đích tôn chỉ nên rất dễ có nguy cơ bị tan rã.
Đánh giá về tổ chức CLB dành cho học sinh – sinh viên cho thấy, các CLB trong trường chưa thực sự đa dạng. Điều này ít nhiều ảnh hưởng đến chất lượng đào tạo của Nhà trường.
Để đánh giá về hoạt động của thư viện nhóm nghiên cứu đã tiến hành khảo sát ý kiến của 200 HSSV. Kết quả nghiên cứu thu được như sau: trong số sinh viên được hỏi ở mức độ đánh giá cao nhất rất thường xuyên không có sinh viên nào trả lời; ở mức thường xuyên có 10,5%; tương đối thường xuyên có 27,0%; mức thỉnh thoảng có 55,5% và có 7% số HSSV không bao giờ đến thư viện. Những con số này phản ánh đúng tư duy của sinh viên trường nghề đó là không cần phải đọc sách, tài liệu tại thư viện mà chỉ cần học qua các buổi học thực hành trên lớp, đi thực tế tại doanh nghiệp hoặc khi cần đã có mạng Internet. Hơn nữa, theo khảo sát cũng cho thấy hiện nay do được bố trí ở khu vực chưa hợp lý nên ảnh hưởng đến sự yên tĩnh của phòng đọc. Số đầu sách và báo chí, tài liệu chưa phong phú và đa dạng nên khó thu hút được bạn đọc. Thời gian hoạt động của phòng đọc lại chỉ trong giờ hành chính gây khó khăn trong việc sắp xếp thời gian đến thư viện của HSSV
Thông qua khảo sát CBGV về mối quan hệ giữa các thành viên trong nhà trường, nhóm đề tài đã thu được kết quả khảo sat: hầu hết CBGV đánh giá là tốt, họ đều cho rằng CBGV trong Trường có văn hóa ứng xử văn minh, lịch sự, tôn trọng đồng nghiệp và HSSV. Bên cạnh đó, vẫn còn tồn tại những hiện tượng như sự đố kỵ, tính hẹp hòi, tính đổ lỗi, mặc dù không nhiều nhưng cũng là những yếu tố ảnh hưởng không nhỏ đến hình ảnh của nhà Trường.
Rất nhiều sinh viên cho rằng giáo viên luôn hòa nhã, cởi mở, thân thiện, lịch thiệp. Nhưng có đến 19,5% người học nhận xét giữa CBGV và HSSV vẫn có những khoảng cách nhất định và một vài nhận định về cách ứng xử chưa được phù hợp của đội ngũ giáo viên như đôi khi còn nóng nảy hoặc có sự chỉ trích HSSV khi mắc lỗi….
Văn hóa ứng xử của HSSV: Kết quả khảo sát cho thấy, 98% số sinh viên được hỏi đánh giá rằng phần lớn các bạn sinh viên trong Trường có thái độ lễ phép với thầy cô và cán bộ Nhà trường, chỉ có một số ít các bạn có thái độ vô lễ, nghỉ học bỏ học tùy tiện. Đối với bạn bè 88,5% HSSV được hỏi cho rằng đa phần các bạn có lời nói và hành vi ứng xử văn hóa với bạn bè; nhưng vẫn còn một số HSSV có hành vi bạo lực, hành xử thiếu văn hóa, nói tục chửi bậy. Đối với khách khi đến thăm và làm việc tại trường các em đánh giá rằng phần lớn HSSV của Trường luôn có thái độ cởi mở, thân thiện, sẵn sàng giúp đỡ người khác khi cần và chỉ có một số ít HSSV thờ ơ không quan tâm (chiếm 85,5% ý kiến đánh giá). Văn hóa ứng xử của HSSV được thể hiện qua việc thực hiện nội quy, quy chế của Nhà trường. Theo kết quả khảo sát của nhóm đề tài có đến 61,5% chỉ thực hiện nội quy, quy định ở mức bình thường, 13% -15% lần lượt là mức yếu và kém.
Việc HSSV thực hiện nội quy, quy chế của Nhà trương còn được phản ánh trong các kỳ thi. Theo kết quả khảo sát có đến 52,5% số HSSV trả lời rằng việc thực hiện quy chế thi chỉ ở mức độ tương đối nghiêm túc và khoảng 20% ý kiến đánh giá ở mức nghiêm túc trở lên. Trong khi đó cũng có đến 25% cho răng việc thực hiện quy chế thi của HSSV là không nghiêm túc.
* Nâng cao nhận thức cho CBGV, HSSV về sự cần thiết của việc phát triển môi trường văn hóa trong nhà trường.
Ban giám hiệu kết hợp với các đoàn thể trong nhà trường, các khoa chuyên môn tổ chức tuyên truyền, phổ biến các chủ trương, chính sách, các yêu cầu về xây dựng và phát triển văn hóa tới toàn thể CBGV và HSSV trong toàn trường.
- Đầu tư và nâng cấp trang thiết bị tiện nghi phục vụ cho việc dạy và học: Kiểm tra, rà soát để bổ sung bàn ghế trong phòng học và thay thế những bàn ghế đã hỏng. Sửa chữa và thay thế hệ thống âm thanh (micro), ánh sáng, máy chiếu, quạt... kịp thời khi giáo viên phản ánh. Bổ sung và thay thế các tiện nghi trong phòng thực hành theo đúng tiêu chuẩn của các cơ sở kinh doanh du lịch.
- Nâng cao hiệu quả của hệ thống thiết chế văn hoá. Cần quan tâm cơ sở vật chất cho sinh hoạt văn hoá tinh thần của HSSV như: phòng truyền thống dành cho HSSV, nhà văn hóa - CLB, sách báo,...
Hệ thống thư viện, phòng đọc sách cần được sử dụng biện pháp cách âm để tạo không gian yên tĩnh cho bạn đọc. Thời gian mở cửa phòng đọc trong giờ hành chính như hiện nay chưa đáp ứng được nhu cầu đọc sách và chưa khai thác được tối đa thời gian nhàn rỗi của người học.
- Xây dựng chế độ đãi ngộ thỏa đáng cho CBGV và HSSV tham gia tích cực vào hoạt động văn hóa như: giảm giờ chuẩn cho giáo viên hoặc tính giờ nghiên cứu khoa học, cộng điểm cho HSSV.
- Logo, biểu tượng của nhà trường: Logo, biểu tượng của nhà trường phải đơn giản, dễ hiểu, hợp lý, có tính thẩm mỹ tốt đồng thời phản ánh được tầm nhìn và sứ mệnh của nhà trường
- Khẩu hiệu và phương châm làm việc của nhà trường: Khẩu hiệu, phương châm làm việc của nhà trường phải phản ánh được triết lý giáo, phù hợp với quan điểm giáo dục của Đảng và Nhà nước, phù hợp với văn hóa truyền thống của dân tộc, dễ hiểu, dễ nhớ, có tính thuyết phục tốt.dục vì con người của nhà trường.
- Kiến trúc của nhà trường: Kiến trúc của nhà trường phải phản ánh được phong cách kiến trúc cổ điển hay hiện đại hay kết hợp giữa cổ điển và hiện đại; đồng nhất về kiến trúc, không pha tạp giữa các phong cách khác nhau; thuận tiện cho học sinh học và thuận tiện cho giáo viên làm việc.
- Không gian, cảnh quan của nhà trường: Không gian, cảnh quan của nhà trường phải có nhiều cây xanh, có tính thẩm mỹ cao; được bài trí hợp lý, khoa học, tiện lợi cho người sử dụng, đồng thời phải đảm bảo vệ sinh môi trường (sân trường, các lớp học thường xuyên được vệ sinh sạch sẽ,…).
- Trang phục của HSSV, CBGV của nhà trường: Trang phục của nhà trường phải thể hiện tính nghiêm túc, đẹp, thể hiện tính thẩm mỹ cao.
- Hành vi ứng xử của nhà trường: CBGV phải tôn trọng lẫn nhau; cư xử phải văn minh, lịch sự với đồng nghiệp và HSSV; hợp tác, chia sẻ học hỏi lẫn nhau giữa các đồng nghiệp; vị tha, độ lượng với đồng nghiệp và HSSV; giúp đỡ, quan tâm lẫn nhau giữa các đồng nghiệp; khích lệ, động viên HSSV trong học tập.
- Xác định rõ chức năng, nhiệm vụ của từng cá nhân, đơn vị đối với việc thực hiện phát triển môi trường văn hoá nhà trường.
- Xây dựng quy chế phối hợp cụ thể giữa các đơn vị trong nhà trường theo đúng chức năng nhiệm vụ để thực hiện phát triển môi trường văn hoá nhà trường.
- Chỉ đạo xây dựng kế hoạch cụ thể về sự phối hợp giữa các đơn vị trong nhà trường theo đúng chức năng nhiệm vụ để thực hiện phát triển môi trường văn hoá nhà trường.
- Tổ chức lấy ý kiến của cán bộ, giáo viên về cơ chế phối hợp giữa các đơn vị trong nhà trường theo đúng chức năng nhiệm vụ nhằm thực hiện phát triển môi trường văn hoá nhà trường.
Tăng cường sự chỉ đạo nhiệm vụ xây dựng kế hoạch kiểm tra, đánh giá việc thực hiện các nhiệm vụ.
Xây dựng bộ tiêu chí kiểm tra đánh giá việc xây dựng môi trường văn hóa nhà trường. Các tiêu chí cần rõ ràng, cụ thể về mặt định lượng và định tính.
III. Kết luận
Môi trường văn hóa trong nhà trường là nơi mà các giá trị văn hóa biểu hiện cụ thể, sinh động và ý nghĩa nhân văn. Phát triển môi trường văn hóa thực chất là nâng cao chất văn hóa, giá trị văn hóa của mọi hoạt động, làm cho hoạt động đó không chỉ đạt chất lượng nghệ thuật, thẩm mĩ mà còn đóng góp nuôi dưỡng nhân cách con người. Phát triển môi trường văn hóa trong nhà trường chính là nhằm củng cố, đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động của các thiết chế văn hóa. Từ đó, định hướng quá trình sáng tạo giá trị, cải thiện, nâng cao đời sống văn hóa của HSSV.
Quá trình nghiên cứu trên cho thấy, nâng cao chất lượng đào tạo của trường Cao đẳng Du lịch Hà Nội là một yêu cầu quan trọng, cấp thiết trong việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho ngành Du lịch. Với chủ trương của cuộc vận động xây dựng môi trường văn hóa tốt đẹp, lành mạnh tại cơ sở, trường Cao đẳng Du lịch Hà Nội đã và đang tiến hành tích cực các hoạt động nhằm xây dựng một môi trường học tập lành mạnh. Từ nhiều năm nay, các hoạt động của nhà trường đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể, môi trường văn hóa đã định hình vững vàng. Có thể thấy, chất lượng giáo dục không chỉ là những kiến thức được truyền dạy trên lớp mà các giá trị tinh thần là yếu tố quan trọng để con người hăng say trong học tập, sáng tạo trong lao động và hoàn thiện nhân cách của chính mình.
Nghiên cứu môi trường văn hóa tại trường Cao đẳng Du lịch Hà Nội là một đóng góp của đề tài trong việc lý giải về lý luận và thực tiễn của vấn đề xây dựng môi trường văn hóa trong nhà trường. Đề tài đã phân tích các hoạt động văn hóa trong nhà trường để chỉ rõ ưu điểm và hạn chế; tìm ra các nguyên nhân và bài học kinh nghiệm giúp có cái nhìn đúng đắn, toàn diện và khách quan của thực trạng môi trường văn hóa của trường Cao đẳng Du lịch Hà Nội. Từ đó, đưa ra phương hướng và các giải pháp để môi trường văn hóa trong Nhà trường phát triển một cách toàn diện.
IV. Tài liệu tham khảo
1. A.I. Ác - nôn - đốp (1981), Cơ sở lý đề tài hóa Mác - Lênin, Nxb Văn hóa, Hà Nội.
2. C.Mác (1980), “Bản thảo kinh tế - Triết học năm 1844”, Mác - Ăngghen tuyển tập (1), tr. 120.
3. C. Mác và Ph.Ăngghen (1995) Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, Tập 3.
4. Đào Duy Anh (2003), Việt Nam văn hóa sử cương, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
5. Đào Đình Bắc (1998), “Cơ sở lý luận về vấn đề giáo dục môi trường nhân văn theo tinh thần hòa hợp với thiên nhiên”, Kỷ yếu Hội thảo khoa học về giáo dục môi trường nhân văn, Cục Môi trường, tr. 72.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
7. Vũ Dũng (2009), Văn hoá học đường – Nhìn từ khía cạnh lý luận và thực tiễn, Kỷ yếu Hội thảo khoa học “Văn hoá học đường-lí luận và thực tiễn, Hội khoa học Tâm lý – Giáo dục Việt Nam, tr33 – 39.
8. Phạm Văn Đồng (1995), Văn hóa và đổi mới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
9. Federico Mayor (1993), “Ban đầu và cuối cùng là văn hóa”, Tạp chí người đưa tin UNESCO, (10), tr. 35.
10. Georges Olivier (1992), Sinh thái nhân văn, Nxb Thế giới, Hà Nội.
Thanh (2017), Giáo trinh Văn hoá tổ chức vận dụng vào phân tích văn hoá nhà trường, Nxb Đại học Sư phạm, tr 39.
12. Đỗ Huy (2001), Xây dựng môi trường văn hóa ở nước ta hiện nay từ góc nhìn giá trị học, Viện Văn hóa, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
13. Nguyễn Văn Hy, Phan Văn Tú, Hoàng Sơn Cường, Lê Thị Hiền, Trần Thị Diên (1998), Quản lý hoạt động văn hóa, Nxb Văn hóa Thông tin - trường Đại học Văn hóa Hà Nội, Hà Nội.
14. Vũ Khiêu (1993), Mấy vấn đề về văn hóa và phát triển ở Việt Nam hiện nay, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
15. Nguyễn Xuân Kính (2009), Con người, môi trường và văn hóa, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
16. Michel Batisse (1990), “Ngôi nhà xanh của chúng ta”, Tạp chí Người đưa tin UNESCO, (11), tr. 47-48.
17. Hồ Chí Minh (1995), Hồ Chí Minh toàn tập (3), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
18. Hồ Chí Minh (1997), Hồ Chí Minh về văn hóa, Nxb Bảo tàng Hồ Chí Minh, Hà Nội.
19. Đỗ Mười (1993), “Chăm sóc, bồi dưỡng, phát huy nhân tố con người vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh”. Văn kiện Hội nghị lần thú tư Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VII.
20. Nguyễn Trúc Tân (1998), “Xây dựng môi trường văn hóa”, Báo nhân dân, (ra ngày 3/10/1998), tr. 3.
21. Văn Đức Thanh (2001), Về xây dựng môi trường văn hóa cơ sở, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
22. Hà Xuân Trường (1994), Văn hóa - Khái niệm và thực tiễn, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội
23. Viện Ngôn ngữ học (2006), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, Trung tâm từ điển học, Hà Nội - Đà Nẵng.
24. Hoàng Vinh (1999), Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn xây dựng văn hóa ở nước ta, Viện Văn hóa, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
25. Ủy ban quốc gia về Thập kỷ thế giới phát triển văn hóa (1992), Thập kỷ thế giới phát triển văn hóa, Bộ văn hóa, Thông tin và Thể thao xuất bản, Hà Nội.
26. Kent D, Peterson and Terrence E, Deal (1998), How Leaders Influence the Culture of Schools, Realizing a Positive School Climate, Volume 56 , Number1
Báo cáo tổng kết công tác năm 2016.
Báo cáo tổng kết công tác đoàn và phong trào thanh niên nhiệm kỳ 2017 -2019.
Thống kê số liệu phòng học: phòng đào tạo.
Thống kê số liệu sách trung tâm thư viện
Các số liệu khác từ kết quả điều tra từ phiếu KS và phỏng vấn sâu
V. Cam đoan
Tôi xin cam đoan toàn bộ nội dung trong báo cáo này là kết quả nghiên cứu của nhóm nghiên cứu thuộc khoa Kiến thức cơ bản – Cơ sở ngành. Kết quả nghiên cứu này cũng chưa được đăng ở tạp chí khoa học nào. Nếu sai tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.